BẮP VÀ PHỤ PHẨM BẮP

Lượt xem 219

(Acare VN) Bắp và phụ phẩm của bắp là các nguyên liệu phổ biến được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Biết về đặc điểm của các nguyên liệu này giúp có hướng sử dụng hợp lý khi tổ hợp khẩu phần.  

(Acare VN) Bắp và phụ phẩm của bắp là các nguyên liệu phổ biến được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Biết về đặc điểm của các nguyên liệu này giúp có hướng sử dụng hợp lý khi tổ hợp khẩu phần.  

BẮP 

Có nhiều loại bắp khác nhau với nhiều màu khác nhau như vàng, trắng và đỏ. Bắp vàng có chứa sắc tố cryptozanthin, là tiền chất của vitamin A. Ở Mỹ, nơi mà bắp được trồng với số lượng lớn, các giống bắp vàng thường được dùng để làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Sắc tố của bắp vàng có xu hướng tạo màu mỡ thân thịt, nhưng ở Anh thì điều này không được ưa chuộng nên bắp trắng thường được dùng để vỗ béo vật nuôi. Tuy nhiên sắc tố rất hữu ích trong khẩu phần ăn của gà đẻ vì nó góp phần tạo ra màu cam của lòng đỏ trứng. 
 

Bắp, giống như các ngũ cốc khác, cũng có các hạn chế nhất định khi làm thức ăn cho vật nuôi. Mặc dù là một nguồn cung năng lượng tuyệt vời nhưng bắp lại có hàm lượng protein thấp và các protein có chất lượng thấp. Bắp chứa khoảng 730 g tinh bột/kg DM, chứa rất ít xơ và có giá trị năng lượng chuyển hóa cao. Tinh bột trong bắp được tiêu hóa chậm hơn trong dạ cỏ so với các loại ngũ cốc khác, và khi cho thú nhai lại ăn ở tỷ lệ cao, một số tinh bột sẽ đi xuống ruột non, nơi mà chúng được tiêu hóa và hấp thu dưới dạng gulocose. Điều này sẽ góp phần gây ra bệnh ketosis, mặc dù một số glucose đã được sử dụng bởi các nội tạng giúp giảm lượng glucose đi đến gan. Tinh bột đã nấu chín dễ dàng được lên men trong dạ cỏ. Hàm lượng dầu của bắp thay đổi từ 40 g/kg đến 60 g/kg DM và bắp có hàm lượng axit linoleic cao, đây là một yếu tố quan trọng trong khẩu phần để kiểm soát kích thước trứng của gà đẻ. Tuy nhiên nó có xu hướng tạo ra mỡ mềm trong cơ thể. 
 

Hàm lượng protein thô của bắp rất thay đổi và thường dao động từ 90 g/kg đến 140 g/kg DM, mặc dù nhiều giống bắp đã được phát triển có chứa hàm lượng protein cao hơn. Tuy nhiên ở Mỹ, có khuynh hướng phát triển các giống bắp có hàm lượng protein thấp hơn. 
 

Hạt bắp chứa hai loại protein chính. Zein, có trong nội nhũ hạt, là protein quan trọng, nhưng protein này bị thiếu hai axit amin thiết yếu là tryptophan và lysine. Protein khác là glutelin, có hàm lượng ít hơn trong nội nhũ và cả trong mầm hạt, là nguồn chứa hai axit amin tryptophan và lysine cao hơn so với zein. Nhiều giống bắp được nghiên cứu và sản xuất để có các thành phần axit amin khác với trong bắp thường. Ví dụ như Opaque-2, có hàm lượng lysin cao. Sự khác biệt giữa giống bắp này với bắp thường chủ yếu ở tỷ lệ zein/glutelin. 
 

Opaque-2 được báo cáo là vượt trội về mặt dinh dưỡng so với bắp thường đối với chuột, heo, gà và người, nhưng chỉ trong các khẩu phần có bổ sung methionine. Một giống bắp mới hơn là Floury-2, có hàm lượng cao về cả methionine và lysine, và được báo cáo là giúp đàn gà thí nghiệm có năng suất vượt trội hơn so với bắp Opaque-2 trong các khẩu phần không bổ sung methionine. 
 

PHỤ PHẨM CỦA BẮP 
 

Trong sản xuất tinh bột và glucose từ bắp, một số phụ phẩm thu được phù hợp để sử dụng làm thức ăn chăn nuôi. Sơ đồ 1 
 

 

Bắp sau khi đã rửa sạch được ngâm trong dung dịch axit loãng và sau đó được nghiền thô. Loại bỏ các mầm bắp nổi lên bề mặt để tiếp tục xử lý. Các hạt đã loại bỏ mầm sau đó được nghiền mịn và được tách ra bằng cách sàng ướt. Chất lỏng còn lại chứa tinh bột và protein (gluten). Sau đó ly tâm để tách gulen ra khỏi tinh bột. Toàn bộ quá trình này tạo ra ba phụ phẩm là mầm, cám và gluten bắp. 
 

Mầm bắp rất giàu dầu, được ngành công nghiệp thực phẩm cho người đánh giá cao và phần lớn được chiết xuất trước để sản xuất bột mầm bắp. Bột mầm bắp là một sản phẩm có thành phần rất thay đổi, tùy thuộc vào mức độ phân tách khi xay xát (hàm lượng tinh bột và chất xơ) và quá trình chiết – tách so với dung môi (hàm lượng dầu).  Trong một nghiên cứu về 5 mẫu bột mầm bắp, hàm lượng tinh bột, xơ trung tính và dầu trong các khoảng tương ứng là 435–570 g/kg, 220–572 g/kg và 35–127 g/kg DM. Ở Anh quy định phải khai báo hàm lượng dầu và protein trong các nguyên liệu thức ăn. Bột mầm bắp có cân bằng axit amin tốt. Dầu trong các bột có hàm lượng dầu cao có thể bị oxi hóa nhanh chóng nếu không được bảo quản trong các điều kiện thích hợp. Bột gluten bắp có hàm lượng protein rất cao (lên tới 700g/kg DM) và có nhiều sắc tố, và rất có giá trị trong các khẩu phần cho gia cầm. Ba phụ phẩm (mầm, cám và gluten) thường được trộn với nhau và được bán dưới dạng bột gluten bắp. Thức ăn này có hàm protein thay đổi, thường trong khoảng 200-250 g/kg DM, trong đó khoảng 0.6% bị biến đổi trong dạ cỏ. Các bột màu nâu sẫm (do nhiệt) sẽ làm giảm khả năng tiêu hóa protein. Bột gluten bắp có hàm lượng tinh bột khoảng 80 g/kg DM, và giá trị năng lượng trao đổi khoảng 9 MJ/kg DM (đối với gia cầm), khoảng 12.5 MJ/kg DM (đối với thú nhai lại), và giá trị năng lượng thuần đối với heo lứa là 8 MJ/kg DM. Vì đây là sản phẩm xay xát, nên chất xơ sẽ không có tác dụng tương tự như thức ăn thô trong khẩu phần của thú nhai lại. Tuy nhiên, bột gluten bắp đã được sử dụng với một tỷ lệ đáng kể trong thức ăn đậm đặc cho bò sữa. Và nó thường được giới hạn ở khoảng 10-20% trong thức ăn cho heo. 

Nguồn: Animal Nutrition 7th Edition 
Biên dịch: Acare VN Team 

Lượt xem 219

2016 – 2024 ACARE VIETNAM ALL RIGHTS REVERSED