SỬ DỤNG NGUYÊN LIỆU THAY THẾ ĐỂ GIẢM GIÁ THÀNH THỨC ĂN CHĂN NUÔI

Lượt xem 97

PHẦN III
 

CÁM MÌ

Cám mì là một sản phẩm phụ của quá trình chế biến lúa mì, bao gồm vỏ và các hạt của hạt lúa mì mà hầu hết các phần phôi đã bị loại bỏ. Nó có hàm lượng protein tương đối cao (15-17%) và phốt pho và magiê, nhưng lại ít canxi, năng lượng và tinh bột. Cám mì có ít đặc tính kháng dinh dưỡng và do đó là một nguyên liệu thức ăn thay thế tốt, đặc biệt là trong khẩu phần ăn ít protein như thức ăn cho gà mái tơ và gà giống. 

SẮN (KHOAI MÌ)

Sắn là một loại cây trồng cung cấp năng lượng được sản xuất ở các vùng nhiệt đới, Thái Lan là nước xuất khẩu chính. Sắn lát khô và sắn viên là sản phẩm được sử dụng phổ biến trong thức ăn chăn nuôi.

Với nguyên liệu này, cần xem xét các yếu tố sau:
• Yếu tố kháng dinh dưỡng: Củ sắn tươi chứa một yếu tố kháng dinh dưỡng gọi là cyanogen-glucosides (linamarin), được thủy phân thành glucose và axit hydrocyanic (HCN) do tác động của enzyme linamerase có trong củ và được giải phóng trong quá trình chế biến. Khoai sắn có chất lượng tốt nên chứa ít hơn 30 ppm HCN.
• Giá trị dinh dưỡng: Sắn chủ yếu là nguồn cung cấp năng lượng, hàm lượng tinh bột cao (60-70%) rất dễ tiêu hóa. Độ đạm thấp (2,5%) và kém cân đối. Nó thiếu các carotenoit tạo màu, vì vậy phải chú ý nếu những con gia cầm có màu lông / da sặc sỡ được bán trên thị trường.
• Chế biến thức ăn: Cần xem xét độ mịn và độ lớn của bột sắn khi sử dụng dạng thức ăn nghiền. Chất lượng viên có thể kém với khẩu phần có chứa sắn.
 

KHÔ DẦU HẠT CẢI/ CẢI CANOLA

Cây cải dầu là một loại cây lấy hạt có dầu với sản lượng lớn thứ hai trên toàn thế giới (bao gồm cả cải Canola). Đây là sản phẩm phụ của quá trình chiết xuất dầu từ hạt cải và là nguồn protein tốt cho thức ăn của gà thịt. Thông thường, hàm lượng protein thô của nó dao động từ 34-38%, với hàm lượng axit amin thuận lợi so với khô dầu đậu nành. Sự hiện diện của các yếu tố kháng dinh dưỡng (ví dụ: axit erucic, glucosinolates, tanin và sinapine) làm hạn chế tỷ lệ trộn vào. Các giống cây cải dầu cải tiến có hàm lượng axit erucic và glucosinolate thấp, được đặt tên là “cải canola”, đã trở nên phổ biến hơn và việc đưa chúng vào khẩu phần ăn của gà thịt có thể cao hơn nhiều so với khô dầu cải tiêu chuẩn. Mức glucosinolate tối đa được khuyến nghị trong chế độ ăn là 4 µmol trên gam.

Những điều cần xem xét với khô dầu hạt cải dầu/cải canola:
• Nguồn protein tốt, giàu axit amin chứa lưu huỳnh nhưng ít lysine.
• Các yếu tố kháng dinh dưỡng (axit erucic, glucosinolate, tanin và sinapine) hạn chế sử dụng ở mức cao.
• Giá trị dinh dưỡng của khô dầu hạt cải/cải Canola có thể được cải thiện bằng cách sử dụng carbohydrase (cellulase, glucanase, xylanase) và protease.
 

KHÔ DẦU HẠT BÔNG

Khô dầu hạt bông là sản phẩm phụ của quá trình chiết xuất dầu bông, được đặc trưng bởi hàm lượng chất xơ cao làm giảm mật độ dinh dưỡng so với khô dầu đậu nành. Khô dầu hạt bông là một nguồn protein được sử dụng hạn chế trong thức ăn gia cầm do có hàm lượng các yếu tố kháng dinh dưỡng - gossypol và axit béo cyclopropenoid.

Những điều cần xem xét với khô dầu hạt bông:
• Gossypol: Sắc tố polyphenolic được tìm thấy trong hạt. Gossypol liên kết với sắt trong khẩu phần, trong máu và trong lòng đỏ trứng, gây ra các vấn đề về khử sắt và hình thành lòng đỏ đổi màu. Gossypol cũng đã được tìm thấy để ức chế hoạt động của pepsin và trypsin trong đường tiêu hóa. Nồng độ gossypol tự do cao có tương quan với việc giảm năng suất và tăng tỷ lệ tử vong. Tuy nhiên, mức độ tự do gossypol dưới 100 ppm trong chế độ ăn uống đã cho thấy không có tác dụng có hại. Đối với gà giống, khô dầu hạt bông có mức gossypol tự do dưới 50 ppm và hàm lượng lipid còn lại thấp (để giảm đến mức tối thiểu sự hiện diện của axit béo cyclopropenoid) được khuyến nghị để tránh các vấn đề về đốm màu trong lòng đỏ trứng.
• Đạm: Khô dầu hạt bông có hàm lượng đạm thấp hơn khô dầu đậu nành (40-42%), axit amin giới hạn chất xơ là lysine. Phương pháp chiết xuất dầu được sử dụng có thể ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa lysine, chủ yếu là do sự liên kết của gossypol với lysine. Tuy nhiên, bổ sung lysine có thể khắc phục hạn chế này.
• Chất xơ: Thành phần có tính biến đổi cao cần được theo dõi chặt chẽ vì nó ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng. Mật độ dinh dưỡng thấp của nguyên liệu này do hàm lượng xơ có thể làm cho thuận lợi việc đưa khô dầu hạt bông để sử dụng trong khẩu phần nuôi hậu bị.


Biên dịch: Acare VN Team
Nguồn: eu.aviagen.com

Lượt xem 97

2016 – 2024 ACARE VIETNAM ALL RIGHTS REVERSED